Tên di sản : Đền Tự Cường
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : 180/QĐ - UBND
Giới thiệu
Đền Tự Cường trong tiềm thức của người dân:
Theo các cụ cao tuổi ở địa phương cho biết đền Tự Cường xưa kia kích thước cũng khiêm tốn gồm có một ngôi nhà nhỏ, gồm có 4 cột gỗ lim, mái lợp tranh săng, khoảng 4 năm lợp lại một lần do hỏa hoạn đốt rừng làm rẫy nên đền cũ đã bị cháy rụi vào khoảng năm 1968, sau khi đền bị cháy không làm lại nữa. Cuối cùng, chính quyền đã chia đất cho dân ở trên chính nền móng cũ của đền, nhưng khuôn viên đất của đền vẫn còn lại.
Đền Tự Cường ngày nay:
Năm 2011, được sự cho phép của các cấp chính quyền, nhân dân làng Tự Cường đã quyên góp tiền của xây dựng lại ngôi đền cách vị trí đền cũ khoảng 500m (vị trí đất cũ đã chia cho dân ở), đền mới tọa lạc trên đất của khuôn viên Đền thờ Bà cách nền móng cũ khoảng 20m dịch về phía bắc. Đền Tự Cường tọa lạc ở trung tâm làng, quay mặt hướng Đông, trước mặt là cánh đồng lúa sau lưng và hai bên là làng xóm trù phú, bao bọc quanh đền tạo nên vẻ linh thiêng huyền bí. Quy mô đền gồm có 3 gian, tường hồi bít đốc, gồm 4 vì kèo, trong đó có 2 bộ vì kèo và 2 vì kèo khuyết.
Về cấu trúc đền thờ: trước mặt đền thờ có bức pha sát còn gọi là Hoa thiên trong khuông tranh đề: đền thờ thần Tản Viên Sơn, bên trên có đắp trang trí đôi rồng chầu mặt nhật. Cấu trúc đền gồm có 3 gian 4 vì kèo gách tránh kích thước như sau:
Tường đốc dày 0,25m; gian thứ nhất dài 1,6m; gian chính giữa dài 2m; gian thứ ba dài 1,6m; tường dày 0,25m.
Chiều ngang từ ngoài vào trong: Hiên rộng 1,3m; tường dày 0,24m; lòng nhà rộng 3,9m; tường hậu dày 0,25m.
Đền thờ gồm có 4 bộ vì theo kiểu đơn giản kèo suốt gác trênh.
Vì kèo 1 và 4: Hai vì kèo này là hai vì kèo khuyết làm đơn giản bằng luồng không có cột đỡ được gác trực tiếp lên tường đốc.
Vì kèo 2 và 3 là 2 vì kèo chính của công trình ,hai vì này giống nhau đều là kèo suốt, gác tránh, trên trềnh đỡ 3 trụ, 2 trụ chống chéo trực tiếp đỡ vì kèo, trụ giữa chống vào giao nguyên của bộ vì.
Các vì đỡ hoành tải, rui mè bằng luồng, mái lợp ngói máy.
Bức y Môn: Tại đền thờ còn lưu giữ được bức Y môn bằng vải (treo tạm trên bức tường đốc), có kích thước chiều dài 3,2m, chiều rộng 2,6m, hình dáng đã bị rách, hiện nay không thể sử dụng được. Theo các cụ cao niên ở địa phương truyền lại, bức y môn không rõ có từ khi nào, vị trí đặt trước hương án như bức rèm che giữa phía ngoài và hương án phía trong. Bức y môn có nền màu xanh sậm, tất cả các họa tiết được thêu nổi các hình dáng như sau: khuông chiều dài trên cùng là lưỡng long chầu nhật có chiều dài hết bức y môn; khuông tranh dưới cùng là hai đội quân mỗi bên có một voi chiến, và hai ngựa chiến, đi cùng là 7 võ sĩ cởi trần, quần dài đến đầu gối được chằng bó gọn gàng. Các võ sĩ của hai đội quân được tạo hình đối xứng nhau, có cùng kiểu cách trang phục nhưng thần thái khác nhau, một bên dáng người nhỏ hơn, mặt mũi trông hiền lành, riêng vị tướng lại to khỏe hơn; bên kia đội quân với các chiến binh to khỏe, mặt mũi dữ tợn hơn nhưng vị tướng lại nhỏ yếu hơn. Khoảng cách giữa chiều dài và chiều rộng là một nẹp hình chữ nhật màu trắng bao quanh, khuông tranh bên trong hình chữ nhật được trang trí hoa văn hình kỷ hà ở bốn góc, chính giữa là 5 khuông vải để trống. Phía ngoài nẹp mỗi bên có một khuông tranh thêu hình rồng chầu trong tư thế treo mình đuôi ở trên cao thân mình lẫn trong mây đầu chầu vào giữa. Nhìn chung, bức y môn đã bị rách nhưng vẫn toát lên được nội dung là khắc họa lại cuộc chiến chống thiên tai trong truyền thuyết của dân tộc ta, một bên là Sơn Tinh đại diện cho nhân dân, bên kia là Thủy Tinh đại diện cho thủy thần, cuộc chiến khó khăn gian khổ cuối cùng thắng lợi thuộc về nhân dân, Sơn Tinh đã được suy tôn là một vị thánh đứng đầu trong Tứ bất tử của dân tộc ta, đã được nhân dân làng Tự Cường tôn thờ từ xưa, truyền thống đó vẫn được bảo tồn đến hôm nay và mai sau.
Hệ thống thờ tự:
Trong đền thờ hiện nay gồm có một hương án thờ hai vị thần là Tản Viên Sơn, bên cạnh là bát hương thờ Mẫu Thượng Ngàn (nhân dân quen gọi là Bà) trên hương án có các đồ thờ như long ngai giao ý, lư hương, bài vị, mâm bồng và các đồ tế lễ khác.